Điều trị đau Đau trong ung thư

Điều trị đau ung thư nhằm mục đích giảm cơn đau cho bệnh nhân nhưng với tác dụng phụ điều trị phải ở mức thấp nhất có thể, cho phép một người đạt được chất lượng cuộc sống, mức độ chức năng tốt hơn và cuối cùng trải qua một cái chết không đau đớn.[25] Mặc dù 80-90% đau do ung thư có thể được loại trừ hoặc kiểm soát tốt, gần một nửa số người mắc ung thư ở các nước phát triển và hơn 80% người ung thư trên toàn thế giới vẫn chưa nhận được sự chăm sóc tối ưu một cách đầy đủ.[26]

Quá trình diễn tiến ung thư đổi thay theo thời gian và điều trị đau cũng cần phải bám sát với tiến trình này. Những phương pháp điều trị khác nhau có thể được yêu cầu khi bệnh tiến triển. Chuyên gia y tế chịu trách nhiệm quản lý đau nên giải thích rõ ràng cho bệnh nhân về nguyên nhân cơn đau, khả năng điều trị, và những phương án được tính đến, như điều trị bằng thuốc, trực tiếp thay đổi bệnh lý nền, tăng ngưỡng đau, làm gián đoạn, phá hủy hoặc kích thích con đường đau, và đề nghị có một lối sống hợp lý.[25] Hỗ trợ tâm lý, kết nối xã hội và điều trị tâm linh là yếu tố quan trọng trong quản lý đau hiệu quả.[5]

Với một bệnh nhân mà không thể kiểm soát tốt cơn đau nên được giới thiệu đến chuyên gia chăm sóc giảm nhẹ, chuyên khoa hoặc phòng khám quản lý đau.[9]

Tâm lý

Chiến lược đối phó

Cách một người phản ứng lại cơn đau ảnh hưởng đến cường độ đau (ở mức vừa phải), mức độ khổ đau do bệnh tật mà họ đang phải trãi qua, và tác động cơn đau đến chất lượng cuộc sống của họ. Các chiến lược mà con người thường sử dụng để đối phó với cơn đau do ung thư bao gồm tranh thủ tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác; kiên tâm với công việc bất chấp đau đớn; phân tâm để đánh lạc hướng; xét lại ý tưởng không phù hợp; và cầu nguyện hay thực hành nghi lễ.[27]

Một số bệnh nhân ung thư có xu hướng tập trung phóng đại ý nghĩa đe dọa của cơn đau, và đánh giá năng lực đối phó với nỗi đau của bản thân một cách tiêu cực. Khuynh hướng này được gọi là "thảm họa" ("catastrophizing").[28] Một vài nghiên cứu đến nay đã cho thấy những bệnh nhận có khuynh hướng này thường liên quan đến mức độ đau đớn và tâm lý khổ đau cao hơn. Trong một nghiên cứu, những bệnh nhân chấp nhận đối diện với cơn đau đó sẽ vẫn tiếp tục kiên trì và có thể tham gia vào một cuộc sống có ý nghĩa mà ít bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng thảm họa và trầm cảm. Cũng trong hai nghiên cứu, những bệnh nhân ung thư có mục tiêu rõ ràng, động lực và phương tiện để đạt được những mục tiêu đó có trải nghiệm mức độ đau đớn, mệt mỏi và trầm cảm thấp hơn nhiều.[27]

Những bệnh nhân ung thư có niềm tin vào sự hiểu biết về tình trạng và điều trị, cũng như khả năng (a) kiểm soát những triệu chứng, (b) cộng tác thành công với những người chăm sóc không chính thức và (c) giao tiếp hiệu quả với chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ có trải nghiệm đau ở mức tốt hơn. Do đó, các bác sĩ nên thực hiện các bước để khuyến khích và tạo thuận lợi cho giao tiếp hiệu quả, và nên xem xét thêm can thiệp tâm lý xã hội.[27]

Can thiệp tâm lý xã hội

Việc thay đổi cách người bệnh đối diện với ung thư phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ từ phía gia đình và những người chăm sóc không chính thức khác, nhưng cơn đau có thể làm chia rẽ nghiêm trọng mối quan hệ giữa các cá nhân, do vậy những bệnh nhân ung thư và bệnh nhân đang trị liệu nên cân nhắc liệu có cần sự góp mặt của gia đình và những người chăm sóc không chính thức khác trong các biện pháp can thiệp trị liệu tâm lý được kiểm soát chất lượng hay không.[27]

Thuốc

Những thông tin y khoa của Wikipedia tiếng Việt chỉ mang tính chất tham khảo và không thể thay thế ý kiến chuyên môn.Trước khi sử dụng những thông tin này, đề nghị liên hệ và nhận sự tư vấn của các bác sĩ chuyên môn.

Các hướng dẫn của WHO[5] đề nghị kịp thời uống thuốc nhanh chóng khi cơn đau xảy đến, khởi đầu, nếu bệnh nhân không bị đau nặng, thì dùng các thuốc giảm đau không opioid như paracetamol, dipyrone, thuốc chống viêm không steroid hoặc thuốc các thuốc NSAIDs chọn lọc (còn gọi là COX – 2 inhibitors).[5]

Hơn một nửa số bệnh nhân đau và ung thư tiến triển sẽ cần đến những loại thuốc opioid mạnh, và khi những loại thuốc này kết hợp với thuốc giảm đau không opioid sẽ tạo thành thuốc giảm đau được chấp nhận trong 70-90% trường hợp.Morphine cũng có hiệu quả xoa dịu cơn đau ung thư.[29] Tác dụng phụ buồn nôn và táo bón hiếm khi đủ nghiêm trọng để ngăn cản việc ngừng quá trình điều trị.[29] An thần và suy giảm nhận thức thường xảy ra trong liều khởi đầu, gia tăng đáng kể trong liều opioid mạnh, nhưng sẽ cải thiện sau một hoặc hai tuần với liều thích hợp. Thuốc chống nôn và thuốc nhuận tràng nên được bắt đầu đồng thời với opioid mạnh, để chống lại buồn nôn và táo bón thông thường. Buồn nôn thường hết sau hai hoặc ba tuần điều trị nhưng thuốc nhuận tràng cần phải được duy trì tích cực.[25]

Điều trị can thiệp

Nếu phác đồ thuốc giảm đau và tá chất được đề nghị ở trên không đủ làm giảm đi cơn đau, thì các lựa chọn bổ sung/thay thế luôn sẵn có.[30]

Xạ trị

Xạ trị được tính đến khi điều trị bằng thuốc không thể kiểm soát được cơn đau từ một khối u đang phát triển, như trong di căn xương (phổ biến nhất), hay sự thâm nhập của mô mềm hoặc sự đè nén của các dây thần kinh cảm giác. Thông thường, với liều xạ thấp đã đủ để làm giảm cơn đau, bằng cách giảm áp lực hoặc, có thể, can thiệp vào việc sản xuất các chất hóa học gây ra cơn đau của khối u.[31] Chất phóng xạ nhắm trúng vào các khối u đã được xác định để làm dịu đi cơn đau do tình trạng di căn của bệnh. Cơn đau sẽ được giảm nhẹ trong vòng một tuần điều trị và có thể duy trì từ hai đến bốn tháng.[30]

Neurolytic block

Cắt hay loại bỏ các dây thần kinh

Cross-section of the spinal cord showing the dorsal column and the anterolateral spinothalamic tracts

Cắt hay loại bỏ các dây thần kinh (neurectomy/thủ thuật cắt bỏ dây thần kinh) được tiến hành ở những bệnh nhân ung thư có thời gian sống thấp và những bệnh nhân không thích hợp cho điều trị bằng thuốc do không hiệu quả hoặc không dung nạp. Bởi vì mỗi dây thần kinh thường mang cả hai sợi thần kinh: cảm giác và vận động, suy giảm khả năng vận động là một tác dụng phụ hay xảy ra sau thủ thuật cắt bỏ dây thần kinh. Và một kết quả phổ biến là đau mất hướng tâm ("deafferentation pain"), sau 6-9 tháng phẫu thuật, đau trở lại với cường độ lớn hơn.[32]

Cắt bỏ dây thần kinh liên quan đến việc cắt các sợi thần kinh chạy lên phần tư phía trước/bên (anterolateral) của tủy sống, mang tín hiệu nhiệt và đau đến não.


Hypophysectomy

Hypophysectomy/thủ thuật cắt bỏ tuyến yên là sự phá hủy tuyến yên, và giúp làm giảm cơn đau trong một số trường hợp đau do di căn vú và ung thư tuyến tiền liệt.[32]

Patient-controlled analgesia

Kích thích tủy sống

Liệu pháp bổ sung và thay thế

Do chất lượng không cao của hầu hết các nghiên cứu về liệu pháp bổ sung và thay thế trong điều trị đau do ung thư, không thể đưa ra lời khuyên có nên đưa các liệu pháp này vào trong việc giảm đau do ung thư. Có một số lợi ích khiêm tốn từ thôi miên nhưng chưa đủ bằng chứng; Những nghiên cứu về liệu pháp mát xa vẫn cho ra các kết quả khác nhau và sau 4 tuần thực hành vẫn không làm giảm thiểu cơn đau; Reiki, và kết quả điều trị theo liệu pháp cảm ứng không thuyết phục; châm cứu, phương pháp trị liệu được nghiên cứu nhiều nhất, đã chứng minh không có lợi ích như một phương pháp hỗ trợ giảm đau trong ung thư; bằng chứng về liệu pháp âm nhạc là không rõ ràng; và một số can thiệp thảo dược như PC-SPES, cây tầm gửi, và chiết xuất cây cọ lùn (Saw Palmetto) được biết là độc đối với một số bệnh nhân ung thư. Bằng chứng hứa hẹn nhất, mặc dù vẫn còn yếu, là các can thiệp tâm trí - cơ thể như liệu pháp phản hồi sinh học và kỹ thuật thư giãn.[9]

Rào cản điều trị

Mặc dù các tài liệu công khai luôn sẳn sàng để hướng dẫn điều trị đau dựa trên bằng chứng đơn giản mà hiệu quả từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)[5] và các tổ chức y tế khác,[6] nhiều nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe vẫn có một sự hiểu biết kém về các khía cạnh quan trọng trong điều trị đau, bao gồm đánh giá tình trạng, liều lượng, dung nạp, khả năng nghiện thuốc và tác dụng phụ; nhiều người không biết rằng cơn đau có thể được kiểm soát tốt trong hầu hết các trường hợp.[25][33] Như, ở Canada, bác sĩ thú y được đào tạo nhiều hơn gấp 5 lần so với các bác sĩ lâm sàng và đào tạo nhiều hơn gấp ba lần so với y tá.[34] Các bác sĩ cũng có thể chưa điều trị đau đúng cách vì lo ngại từ phía cơ quan quản lý.[9]

Tồn tại các vấn đề hệ thống thể chế trong việc cung cấp kiểm soát đau bao gồm thiếu nguồn lực để đào tạo đủ bác sĩ, hạn chế về thời gian, thất bại trong việc tiếp cận bệnh nhân để điều trị đau trong bối cảnh lâm sàng, bảo hiểm hoàn trả không đủ cho điều trị đau, thiếu nguồn dự trữ đủ thuốc giảm đau cho khu vực khó khăn, các chính sách của chính phủ đã lỗi thời về quản lý đau ung thư, và thủ tục, quy định chính phủ trong hạn chế việc kê toa, cung cấp và quản lý thuốc giảm đau nhóm opioid.[9][25][33]